Theo Ý kiến về việc thúc đẩy đổi mới và phát triển ngành công nghiệp tre do 10 bộ ngành bao gồm Cục Lâm nghiệp và Đồng cỏ quốc gia và Ủy ban Cải cách và Phát triển quốc gia ban hành chung, tổng giá trị sản lượng của ngành công nghiệp tre tại Trung Quốc sẽ vượt quá 700 tỷ nhân dân tệ vào năm 2025 và vượt quá 1 nghìn tỷ nhân dân tệ vào năm 2035.
Tổng giá trị sản lượng của ngành công nghiệp tre trong nước đã được cập nhật đến cuối năm 2020, với quy mô gần 320 tỷ nhân dân tệ. Để đạt được mục tiêu đến năm 2025, tốc độ tăng trưởng kép hàng năm của ngành công nghiệp tre cần đạt khoảng 17%. Điều đáng chú ý là mặc dù quy mô của ngành công nghiệp tre rất lớn, nhưng nó bao gồm nhiều lĩnh vực như tiêu dùng, y học, công nghiệp nhẹ, chăn nuôi và trồng trọt, và không có mục tiêu rõ ràng về tỷ lệ thực tế "thay thế nhựa bằng tre".
Ngoài chính sách “năng lượng cuối cùng”, về lâu dài, việc ứng dụng tre trên quy mô lớn còn phải đối mặt với áp lực chi phí cuối cùng. Theo những người trong doanh nghiệp giấy Chiết Giang, vấn đề lớn nhất của tre là không thể cắt thành bánh xe, dẫn đến chi phí sản xuất tăng theo từng năm. “Vì tre mọc trên núi, nên thường được cắt từ chân núi, càng cắt nhiều thì chi phí cắt càng cao, do đó chi phí sản xuất sẽ tăng dần. Xét về vấn đề chi phí dài hạn luôn tồn tại, tôi cho rằng “tre thay thế nhựa” vẫn chỉ là giai đoạn ý tưởng.”
Ngược lại, cùng một khái niệm “thay thế nhựa”, nhựa phân hủy sinh học do hướng đi thay thế rõ ràng hơn nên tiềm năng thị trường trực quan hơn. Theo phân tích của Huaxi Securities, lượng tiêu thụ túi mua sắm, màng phủ nông nghiệp và túi đựng đồ ăn mang về, vốn là những mặt hàng bị kiểm soát chặt chẽ nhất theo lệnh cấm nhựa, trong nước vượt quá 9 triệu tấn mỗi năm, với không gian thị trường rất lớn. Giả sử tỷ lệ thay thế nhựa phân hủy sinh học vào năm 2025 là 30%, không gian thị trường sẽ đạt hơn 66 tỷ nhân dân tệ vào năm 2025 với giá trung bình 20.000 nhân dân tệ/tấn nhựa phân hủy sinh học.
Bùng nổ đầu tư, “thế hệ nhựa” thành sự khác biệt lớn hơn
Thời gian đăng: 09-12-2022